Thứ sáu tuần IV thường niên
Bậc lễ: thường
Màu phụng vụ: Xanh
Nghe MP3
Năm I:
Ca nhập lễ
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, xin cứu độ chúng tôi, từ khắp muôn dân, xin thu họp chúng tôi về, để chúng tôi được ca tụng thánh danh Chúa, và được vinh dự ngợi khen Chúa.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I): Dt 13, 1-8
“Ðức Giê-su Ki-tô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế”.
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: “Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu”, đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: “Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi”. Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giê-su Ki-tô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
Xướng: Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin.
Xướng: Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên.
4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con.
Bài Ðọc I: (Năm II): Hc 47, 2-13
“Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên Chúa”.
Trích sách Huấn Ca.
Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì Ða-vít được chọn giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với chiên con và đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã chẳng hạ sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên Go-li-át kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa đã ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng can đảm của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn, được ca tụng vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều thiên vinh quang, vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán bọn giặc Phi-li-tinh cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời. Trong mọi việc, người dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao; người thành tâm ca tụng Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã cho người quyền năng chống lại quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn thờ Chúa, để hoà nhịp những bài thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Ít-ra-en.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.
Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi (c. 47b).
Xướng: Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người.
Xướng: Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! – Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài.
Xướng: Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 14-29
“Ðó chính là Gio-an Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.
Khi ấy, vua Hê-rô-đê nghe nói về Chúa Giê-su, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: “Gio-an Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng”; kẻ thì bảo: “Ðó là Ê-li-a”; kẻ khác lại rằng: “Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác”. Nghe vậy, Hê-rô-đê nói: “Ðó chính là Gio-an trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”. Vì chính vua Hê-rô-đê đã sai bắt Gio-an và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hê-rô-đi-a, vợ của Phi-líp-phê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gio-an đã bảo Hê-rô-đê: “Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình”. Phần Hê-rô-đi-a, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hê-rô-đê kính nể Gio-an, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hê-rô-đê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Ga-li-lê-a. Khi con gái nàng Hê-rô-đi-a tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hê-rô-đê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: “Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho”, và vua thề rằng: “Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho”. Cô ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì?” Mẹ cô đáp: “Xin đầu Gio-an Tẩy Giả”. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: “Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gio-an Tẩy Giả đặt trên đĩa”. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gio-an và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gio-an, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gio-an đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con xin kính cẩn dâng những lễ vật này lên bàn thờ Chúa để tỏ lòng thần phục suy tôn; cúi xin Chúa nhân từ chấp nhận và làm cho trở thành bí tích đem lại ơn cứu chuộc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu độ tôi theo lượng từ bi của Chúa. Lạy Chúa, xin đừng để tôi phải hổ ngươi vì đã kêu cầu Chúa.
Hoặc đọc:
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã lấy lương thực cứu độ để nuôi dưỡng chúng con; xin Chúa dùng sức mạnh dồi dào của bí tích này làm cho đức tin chân chính được tiến triển luôn mãi. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
1. TÌNH YÊU CHUNG THUỶ
Yêu là chung thuỷ. Từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người, tình yêu hôn nhân luôn là mối dây liên kết giữa người nam và người nữ. Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt. Mối dây liên kết này được chính Chúa Giêsu đóng ấn: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Để bảo vệ chân lý vĩnh cửu này, Gio-an Tẩy Giả đã can đảm nói sự thật cho vua Hê-rô-đê: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài” (Mc 6,18). Ngay cả vua Hê-rô-đê với tất cả quyền hành trong tay cũng không có quyền huy bỏ giao ước tình yêu vĩnh cửu. Nói một cách đơn giản, Hê-rô-đê không được phép ngoại tình. Cũng vậy, không ai được phép ngoại tình. Hơn nữa, tình yêu chung thuỷ xuất phát từ sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Ki-tô với Hội Thánh. Thiên Chúa hằng yêu thương nhân lại. Người lập giao ước vĩnh cửu với chúng ta qua Con Một yêu quý. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được cụ thể hoá một cách mĩ mãn trong tình yêu của chính Đức Giê-su. Như thánh Gio-an khẳng định: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đức Kitô đã tự hiến chính thân mình trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Mặc dù nhân lại tội lỗi có khước từ tình yêu Chúa, thì Chúa vẫn trung tín cho đến cùng. Người không bỏ rơi con người, như lời Người đã hứa: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tóm lại, Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vĩnh cửu. Thế nên, tình yêu giữa người vợ với người chồng phải luôn phản ánh tình yêu của một Thiên Chúa trung tín. Tình yêu hôn nhân không đơn thuần là sự thoả thuận của người nam và người nữ được luật pháp nhìn nhận. Hôn nhân là một ơn gọi, một lối sống, và một sứ mạng được Chúa mời gọi và trao ban cho người nam và người nữ, ngõ hầu họ trở nên chứng nhân của giao ước tình yêu vĩnh cửu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.
Lm. An-tôn Trần Văn Phú
2. THÁNH GIO-AN BỊ TRẢM QUYẾT
(Mc 6,14-29)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gio-an Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giê-su lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hê-rô-đê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gio-an Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giê-su. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.
2. Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gio-an vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gio-an Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với người Do thái lúc đó. Gio-an Tẩy giả đã tự xóa mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gio-an đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: ”Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.
3. Còn vua Hê-rô-đê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gio-an Tẩy Giả là cũng vì nghe lời Hê-rô-đi-a-đê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gio-an Tẩy Giả vì biết Gio-an là người công chính thánh thiện. Mác-cô viết: ”Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hê-rô-đê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.
Hê-rô-đê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hê-rô-đi-a-đê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ lụy sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.
4. Còn bà Hê-rô-đi-a-đê từng là vợ của tiểu vương Hê-rô-đê Phi-líp-phê (cũng là một trong ba người con của Hê-rô-đê Cả), do bị thánh Gio-an Tẩy Giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hê-rô-đê An-ti-pa, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã phạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gio-an và muốn giết ông…
Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hê-rô-đi-a-đê để trả thù những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.
5. Gio-an Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giê-su, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giê-su và nơi mỗi người Ki-tô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gio-an Tẩy Giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Ki-tô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.
Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Ki-tô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Ki-tô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Ki-tô và kết hợp với Người mãi mãi” (Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Một học sinh can đảm.
Suy niệm gương thánh Gio-an Tẩy Giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
Một học sinh Nhật là Ki-tô hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Ki-tô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).
Lm. Giu-se Đinh Lập Liễm
Nguồn: Tổng Giáo Phận Hà Nội