Thứ 7 Tuần 5 Thường Niên

Thứ bảy tuần V thường niên

Bậc lễ: thường

Màu phụng vụ: Xanh

Nghe MP3


Ca nhập lễ

Hãy tiến lên, chúng ta hãy thờ lạy Thiên Chúa, và hãy tiến bước trước nhan thánh Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, vì chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, chúng con là con cái trong nhà, chỉ đứng vững khi dựa vào ơn Chúa, xin Chúa hằng che chở chúng con. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3, 9-24

“Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: “Ngươi ở đâu?”
Ông đã thưa: “Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng và đang ẩn núp”.
Chúa phán bảo ông rằng: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?”
Ađam thưa lại: “Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn”.
Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: “Tại sao ngươi đã làm điều đó?”
Người phụ nữ thưa: “Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn”.
Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: “Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người”.
Chúa phán bảo cùng người phụ nữ rằng: “Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và chồng sẽ trị ngươi”.
Người lại phán bảo Ađam rằng: “Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất”.
Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.
Và Người phán: “Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác. Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời đời”.
Và Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra.

Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 89,2.3-4.5-6.12-13

Xướng: Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, Ngài vẫn có.

Đáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

Xướng: Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.

Xướng: Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

Xướng: Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 12, 26-32; 13, 33-34

“Giêroboam đúc hai con bò vàng”.

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Giêroboam nói trong lòng rằng: “Giờ đây vương quốc sẽ trở về với nhà Ðavít; nếu dân này lên Giêrusalem để tế lễ trong nhà Chúa, thì lòng dân này sẽ quy thuận với chủ mình là Roboam, vua xứ Giuđa; họ sẽ giết ta và trở về với Roboam”. Bấy giờ, ông triệu tập hội nghị và đúc hai con bò vàng, ông nói với dân chúng rằng: “Các ngươi không cần phải lên Giêrusalem nữa. Hỡi Israel, đây những vị thần minh đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập”. Ông đặt một con bò vàng ở Bêthel và một con ở Ðan. Việc đó là dịp tội cho dân Israel, vì dân chúng lên tận Ðan để thờ con bò vàng. Ông còn xây chùa miếu trên những nơi cao, đặt các người trong dân làm tư tế, họ không phải là con cháu Lêvi. Ông chọn ngày rằm tháng tám là ngày lễ trọng, giống như lễ trọng thường cử hành trong xứ Giuđa. Ông lên bàn thờ để tế những tượng bò mà ông đã đúc, ông làm như thế ở Bêthel; cũng tại Bêthel, ông đã thiết lập hàng tư tế trong các chùa miếu mà ông đã xây cất trên những nơi cao.

Sau các sự việc đó, Giêroboam chẳng những không dứt bỏ đàng tội lỗi, mà trái lại ông còn tiếp tục đặt ở những nơi cao hàng tư tế chọn trong dân chúng. Do đó, nhà Giêroboam phạm tội, bị lật đổ và xoá khỏi mặt đất.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 105, 6-7a. 19-20. 21-22.

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).

Xướng: Chúng tôi đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng tôi, chúng tôi đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng tôi, khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.

Xướng: Dân chúng đã đúc con bò tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.

Xướng: Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.

Alleluia

Alleluia – Alleluia – Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 8,1-10

“Họ ăn no nê”.

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến”.

Các môn đệ thưa: “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no”.

Và người hỏi các ông: “Các con có bao nhiêu bánh?”

Các ông thưa: “Có bảy chiếc”.

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.

Các ông chia cho dân chúng.

Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.

Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.

Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.

Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.

Đó là lời Chúa

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong muôn vật Chúa đã dựng nên, Chúa đã lấy bánh và rượu để nuôi dưỡng loài người; xin cho bánh rượu này cũng trở nên bí tích đem lại cho chúng con sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Thiên hạ hãy cảm ơn Chúa vì Chúa nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Ngài đối với loài người, bởi Người đã cho người đói khát được no nê, người cơ hàn được tràn trề thiện hảo.

Hoặc đọc:

Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, thì họ sẽ được no thoả.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh, cùng được uống chung một chén rượu; xin cho cộng đoàn chúng con đây biết thành tâm hiệp nhất trong tình yêu của Ðức Kitô, để nhờ đó mà cả thế giới này được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

TÌNH THƯƠNG LÀM NÊN PHÉP LẠ

Tin Mừng Mác-cô và Mát-thêu thuật lại tới hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, một xảy ra ở vùng đất Do-thái, một xảy ra ở vùng đất lương dân. Phép lạ được trích đọc hôm nay là phép lạ thứ hai, xảy ra tại vùng đất dân ngoại, có vài chi tiết đáng chú ý:

– Số bánh ban đầu là 7 cái.

– Số người ăn là bốn ngàn.

– Số bánh dư là bảy thúng.

– Không nhắc tới cá, chỉ nhắc tới bánh thôi.

Lý do để Chúa làm phép lạ là vì thương dân chúng: “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường”.

Tấm lòng của Chúa Giê-su là thế và mãi mãi là thế, ngày xưa thế nào ngày nay vẫn thế. Chúa Giê-su đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ.

Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối đều phải khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc sớm muộn những công việc ấy cũng bị những ý đồ ích kỷ, vụ lợi chen vào.

Ngày hôm nay Chúa vẫn chạnh lòng thương nhân loại. Chúa đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực mang lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chúa vẫn gia tăng lương thực cho nhân loại nhờ sự phát triển của khoa học; và với sự giàu có của con người hôm nay, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa.

Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Chúa Giê-su cần đến sự cộng tác của mọi người, đặc biệt của các Ki-tô hữu bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông hôm đó sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ cứ giữ chặt bảy chiếc bánh khẩu phần ăn của mình không đưa ra để Chúa làm phép lạ; dân chúng hôm đó sẽ đói lả, nếu các Tông đồ không phân phát bánh cho mọi người, vì sợ thiếu hay không còn phần mình. Cảnh đói khát hôm nay sẽ mãi vẫn còn, vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mỗi người chỉ bo bo giữ cho mình. Nếu mỗi người biết quảng đại sẻ chia, dù chỉ một chút bánh, một chút gạo, dù chỉ có thể làm cho một người bớt đói; nhưng ai cũng làm như thế, thế giới sẽ không còn ai phải đói.

Nếu không có tấm lòng yêu thương, chúng ta sẽ chẳng thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Nhưng nếu có tình thương, phép lạ sẽ xảy ra, người đói sẽ được ăn, sẽ không còn cảnh đói khát nghèo nàn.

Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.

Lm. Giu-se Vũ Công Viện

2. PHÉP LẠ HÓA BÁNH LẦN THỨ HAI

(Mc 8,1-10)

1. Đã ba ngày đám dân chúng đi nghe Chúa giảng mà không có gì ăn, Đức Giê-su động lòng thương xót họ nên bảo các môn đệ lo cho họ ăn, vì sợ họ về mệt lả dọc đường. Các môn đệ thưa ở nơi hẻo lánh này không thể tìm đâu đủ bánh cho họ ăn vì các ông chỉ có bảy chiếc bánh và mấy con cá. Chúa liền bảo dân chúng ngồi xuống, rồi Người cầm lấy bánh và cá của các ông, tạ ơn, rồi trao cho các ông phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê và còn dư bảy thúng. Số người ăn độ bốn ngàn.

2. Bài Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng thương và quyền năng của Đức Giê-su. Người tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Người không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm đâu ra của ăn. Sở dĩ Đức Giê-su đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Người đã chạnh lòng thương xót họ. Vì thế, mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào ý đồ ích kỷ, vụ lợi.

3. Chúa Giê-su làm phép bánh xong, Người không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Người muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Chính Chúa Giê-su đã bảo các ông hãy dọn ra cho đám dân chứ không nhờ ai khác. Như vậy, Chúa cũng bảo chúng ta phải có liên đới với những người chung quanh (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần lẫn vật chất:

– Về tinh thần: có trách nhiệm về đức tin với cận nhân. Đó không phải là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các giáo lý viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.

– Về vật chất: biết chia sẻ cơm áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.

4. Nhiều nhà chú giải còn gọi phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của tình thương. Vì thế mà phép lạ hóa bánh ra nhiều được coi như là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể. Vì yêu thương mà Chúa đã lấy thịt máu mình để nuôi con người. Với lương thực này, Người tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa.

Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Đức Giê-su cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát ngày nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.

5. Truyện: Một nồi cháo đá tuyệt vời.

Một người lạ mặt đến gõ cửa nhà một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng bà góa nghèo này biết, trong nhà bà không có gì để ăn cả.

Người lạ mặt nói:

– Không sao, tôi có mang theo một hòn đá. Hòn đá này có thể biến nước lã thành một thứ cháo tuyệt vời. Vậy xin bà cho tôi mượn một cái nồi lớn.

Thấy người là mặt này có vẻ thành thật, bà góa kia đi lấy một cái nồi lớn, bắc lên bếp, rồi đổ nước đầy nồi. Nhóm bếp lên để nấu nồi nước xong, bà chạy qua các nhà hàng xóm báo cho họ biết về hòn đá lạ lùng của người lạ mặt đang ở nhà bà. Thế là người này truyền miệng người kia. Một lát sau, người ta kéo đầy đến nhà bà… đông quá đến nỗi không còn chỗ chứa. Trước những đôi mắt mở to vì tò mò, người lạ mắt lấy ra từ trong bị của ông một hòn đá, rồi trịnh trọng bỏ vào nồi nước lúc này đang sôi. Ông ta lấy chiếc đũa giá lớn, quậy nồi nước lên. Một lát sau, ông lấy một muỗm nhỏ, múc nước ở trong nồi, đưa lên miệng thổi cho nguội đi rồi nếm, vừa nếm ông vừa hít hà nói:

– Thật là tuyệt vời. Nhưng nếu giá có thêm một ít khoai bỏ vào nữa, thì còn tuyệt hơn nhiều

Nghe người lạ mặt nói thế, một người đàn bà có mặt lên tiếng:

– Nhà tôi có khoai.

Nói xong, bà vội chạy về nhà, đem đến một rổ khoai. Người lạ mặt cho những miếng khoai đã được gọt rửa, rồi xắt nhỏ, bỏ vào nồi cháo. Ông ngồi đó để quậy nồi cháo.

Một lát sau, ông lại lấy muỗm múc ra để nếm thử, rồi nói:

– Tuyệt lắm rồi. Nhưng giá có thêm một chút thịt thì ngon hơn nhiều.

Nghe nói thế, một bà có mặt ở đó, nhà làm thịt heo, chạy về nhà lấy ngay mấy miếng xương và mấy miếng thịt heo chưa bán hết đem tới.

Người lạ mắt bỏ những miếng xương và mấy miệng thịt kia vào nồi, rồi lại ngồi đó quậy nồi cháo một hồi lâu.

Trước những con mắt chờ đợi để xem sự lạ, người lạ mặt lại múc cháo nếm thử, rồi nói:

– Bây giờ thì chúng ta có thể thưởng thức nồi cháo này được rồi. Nhưng giá có thêm một ít hành ngò và một chút tiêu nữa thì tuyệt hảo.

Thế rồi người ta đã đem hành, ngò và tiêu đến. Sau khi đã bỏ những thứ này vào nồi cháo, người lạ mặt bảo bà góa chủ nhà:

– Hãy lấy bát múc cho mọi người ăn thử.

Trong khi mọi người đang vui vẻ nếm thử cháo đá, thì người lạ mặt đã lén đi mất. Vậy là nhờ mỗi người đóng góp một tí mà hôm đó mọi người đã có một món cháo ngon lạ lùng.

Lm. Giu-se Đinh Lập Liễm

Mới hơn Cũ hơn